C chuyện luyện đạo Một bạn đạo
thuộc đạo dòng, gia đình khá giả, làm nghề dạy học, nay con cái đã trưởng thành
có nghề nghiệp ổn định, nên bạn có thời giờ sưu tập các kinh sách của Đạo để
nghiên cứu và học tập.
Bạn muốn đi làm công quả nên
thường đến Thánh Thất và Điện Thờ Phật Mẫu, nhưng bạn nhận thấy ở đó không có
việc làm nào thích hợp với khả năng của bạn,
và nhất là bạn thấy ở đó có nhiều
người nhiều việc làm cho bạn không hài lòng, đôi khi bạn không thể ngờ là có
thể có những việc phàm tục như vậy xảy ra trong cửa Đạo.
Bạn nghĩ rằng, Thánh Thất là nơi
thể hiện tình thương và sự hòa hợp, cho nên khi bước vào Thánh Thất, chúng ta
thấy ngay bức họa “Tam Thánh Ký Hòa Ước” với bốn chữ “Bác Ái - Công Bình”, nhưng
bạn ít khi thấy sự bác ái và công bình thể hiện rõ nét ở nơi đây. Hay bức họa
nầy chỉ rằng, nơi đây là trường thi mà hai môn thi là : Bác ái và Công bình, để
xem thí sinh ở đây ai đậu ai rớt.
Bạn rút về nhà nghiên cứu kinh
sách. Bạn đọc qua các kinh sách của Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, rồi đọc vài
quyển sách của chi phái Chiếu Minh, những Thánh giáo Sưu tập của các chi phái
khác. Bạn vẫn còn nhiều thắc mắc chưa giải tỏa được, bạn bèn tìm đọc các sách
của Tam giáo. Khi đọc sách Thiền Tông, bạn rất thích thú, nhưng cảm thấy khó
quá ! Bạn đọc qua các sách Tiên giáo dạy về Tinh Khí Thần, bạn cảm thấy thích
hạp hơn.
Bạn hỏi tôi : - Tại sao Đạo Cao
Đài Tòa Thánh Tây Ninh có xây dựng các Tịnh Thất, mà sao không có tài liệu nào
dạy cách luyện đạo ?
Tôi đáp : - Tịnh Thất là phần
hành của Đức Cao Thượng Phẩm Hiệp Thiên Đài. Ngài qui Tiên quá sớm nên Ngài
giao quyền lại cho Đức Phạm Hộ Pháp. Sau khi cất Tòa Thánh xong, Đức Hộ Pháp lo
xây dựng các Tịnh Thất. Đức Ngài đã cất được Trí Huệ Cung và Trí Giác Cung. Tuy
đã cất được hai Cung, nhưng đó là để tạo phần căn bản cho sau nầy, chớ Đức Chí
Tôn chưa cho Đức Hộ Pháp mở Bí pháp luyện đạo. Đó là vì còn trong thời kỳ Đại
Ân Xá của Đức Chí Tôn. Bạn đọc kỹ trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, không có chỗ nào
Đức Chí Tôn cho phép tín đồ Cao Đài luyện đạo trong giai đoạn nầy, mà Đức Chí
Tôn lại nói nhiều lần rằng :
Chỉ có làm công quả phụng sự nhơn
sanh thì mới đắc đạo. Xin trích Thánh Ngôn :
“ Trong các con, có nhiều đứa lầm tưởng, hễ vào Đạo thì phải phế hết
nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một
chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện đạo. Thầy nói cho các con biết, nếu công quả chưa
đủ, nhơn sự chưa xong thì không thế nào các con luyện thành đặng đâu mà mong.
Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi.” (TNHT hợp
nhứt, B 108)
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là con
đường ngắn nhất mà Đức Chí Tôn mở ra cho con cái của Ngài đắc đạo. Tuy nhiên,
Đức Chí Tôn cũng không bắt buộc, tùy ý lựa chọn, muốn tu theo đường khác cũng
được, miễn là giữ vững chánh tâm, đừng lầm theo đường tà quái. Ai thích đi
đường vòng mà khuyên can không được thì cứ để họ đi, hơn là bắt buộc làm họ bất
mãn mà sa vào vòng tà quái thì Đức Chí Tôn không đành lòng. Thà để cho họ tiến
hóa chậm một chút còn hơn là để họ lọt vào tay tà quái mà bị thoái hóa thì rất
uổng.
Bạn tôi hiểu biết hết các lẽ đó,
nhưng dường như có một điều gì đó rất hấp dẫn, hạp với ước vọng của bạn tôi,
khiến bạn tôi hướng về việc tu Thiền, mà lý do đầu tiên là để trấn an tinh
thần, làm cho cái tâm bớt vọng động trước những diễn biến phức tạp của việc đời
và việc Đạo.
Thời gian thấm thoát trôi qua
chừng 3 năm, tôi có dịp gặp lại bạn, tôi hỏi bạn tu Thiền được 3 năm rồi, bạn
đạt được những điều gì ?
Bạn cho biết nhờ đếm hơi thở, bạn
định được cái tâm, gìn cái ý, khi ngồi thiền, có một luồng điện chạy rần rần
trong xương sống từ xương cụt lên đỉnh đầu, làm cơ thể của bạn ấm lên, xuất mồ
hôi, nhờ đó bạn trục các trược khí trong người thải ra ngoài, làm cơ thể của
bạn không bịnh tật, khỏe mạnh luôn luôn.
Tôi nói: - Tôi đọc sách thấy :
Nếu tu được một ngàn ngày thì có ấn chứng, sao bạn không có gì hết vậy?
Sau đó, bạn tôi chuyển qua luyện
đạo theo Tiên giáo : luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hoàn
Hư. Nhờ tu thiền 3 năm mà bạn tôi luyện Tinh hóa Khí của giai đoạn đầu, kết quả
khá dễ dàng. Giai đoạn kế là luyện Khí hiệp Thần, bạn luyện hoài mà thấy không
hiệp được. Bạn nghiên cứu lại các sách xem có bí quyết gì không, cuối cùng bạn
cũng luyện được Khí hiệp Thần, bạn có thể xuất chơn thần của bạn ra khỏi thể
xác. Cái chơn thần nầy có hình ảnh giống y như bạn, khi xuất ra thì ngồi kế bên
bạn, không đi đâu được, bởi vì mỗi lần muốn đi thì dường như bị một sợi dây vô
hình kéo lại, nếu muốn bứt mạnh để đi thì lực vô hình cũng giựt mạnh lại, làm
cho chơn thần nhập mạnh trở lại vào thể xác.
Bạn nhứt quyết luyện cho chơn
thần thoát đi được, nhưng liền đó có một giọng nói rất nhỏ nhưng rõ ràng rót
vào tai bạn : “ Bao nhiêu món nợ oan
nghiệt của ngươi từ nhiều kiếp trước tạo thành các sợi dây oan nghiệt buộc chặt
chơn thần của ngươi vào thể xác, làm sao ngươi có thể bứt ra mà đi thoát được.
Ngươi phải gỡ hết các mối dây oan nghiệt nầy bằng cách làm công quả phụng sự
chúng sanh, để dùng công đức ấy mà hoá giải hết các oan nghiệt, lúc đó ngươi mới
có thể thoát ra đi được.”
Thế là bạn tôi thức tỉnh, chấm
dứt việc luyện đạo, trở lại đời sống bình thường, lo cúng kiếng và làm công
quả, tham gia rất tích cực vào các hoạt động từ thiện do địa phương hay do
Thánh Thất tổ chức.
Bạn tôi đã bỏ ra gần 6 năm trời
để đi một vòng, rốt lại trở về chỗ cũ, bởi vì bạn không tin tưởng 100% vào
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn trong TNHT, phải để bạn chứng nghiệm rồi bạn mới
tin, mà cũng may cho bạn vì bạn có căn lành nên vẫn giữ được chánh tâm, không
bị sa vào tay tà quái, có Đấng thiêng liêng nhắc nhở, kịp thời trở lại con
đường chánh đạo.
Nếu bạn đạo nào có lòng hám vọng
lớn lao, muốn tu gấp để trở thành người có huyền pháp, để được người khác tôn
sùng, đưa lên hàng lãnh đạo, thì tà quái sẽ nương theo hám vọng đó, nhập vào để
dẫn đi. Lúc đó, muốn làm Tiên, nó sẽ cho làm Tiên; muốn làm Phật, nó sẽ cho làm
Phật, vì các thứ ấy là giả mà tà quái dùng để chiều theo thị hiếu của người đời
mà mê hoặc người đời, tới chừng thức tỉnh biết là giả thì đã quá muộn.
Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối
vào lời dạy bảo của Đức Chí Tôn và thực hành đúng theo đó, thì mới mong tâm
linh tiến hóa nhanh chóng. Chúng ta chỉ có một cuộc đời, không thể đem ra mà
thử nghiệm hoài cho được.
B. Đại Ân Xá là gì ?
Đại Ân Xá hay Đại Xá là Đức Chí
Tôn ban ơn huệ lớn lao bằng cách tha thứ tội lỗi cho những kẻ có tội.
Kể từ ngày khai Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ, tức là khai Đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn mở ra một thời kỳ Đại Ân Xá cho
các đẳng linh hồn trong càn khôn thế giới và cho toàn cả chúng sanh, để chúng
sanh tu hành dễ bề đắc đạo. Cho nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng được gọi là Đại
Ân Xá Kỳ Ba.
Muốn hưởng được sự ân xá nầy, mỗi
người phải biết thành tâm hối lỗi, ăn năn sám hối tội tình, cải tà qui chánh,
lập lời Minh Thệ, nhứt quyết tu hành, lập công bồi đức. Những tội lỗi của họ đã
chồng chất từ nhiều kiếp trước được Ơn Trên cất giữ lại (không đem ra trừng
phạt) và cho họ làm một tân dân (người dân mới) trong cửa Đạo, nhờ vậy người
nhập môn hành đạo rảnh nợ tiền khiên, chỉ lo trau giồi Đạo hạnh, lập công bồi
đức, để sau cùng lấy công đức trừ dứt tội tình, thì có thể đắc đạo trong một
kiếp tu.
Ngày khai Đạo Cao Đài là ngày
15-10-Bính Dần (1926) là ngày khởi đầu thời Đại Ân Xá Kỳ Ba. Đức Chí Tôn ban
cho nhơn loại các đặc ân sau đây :
1 . Tha thứ tội lỗi ở các kiếp
trước của những người biết hồi đầu hướng thiện, nhập môn cầu đạo, lập Minh Thệ
với Đức Chí Tôn, nhứt tâm tu hành. Cho nên trong Kinh Giải Oan (KGO) và Kinh
Cầu Bà con Thân bằng Cố hữu đã qui liễu (KCBCTBCHĐQL) có các câu sau đây :
" May đặng gặp
hồng ân chan rưới,
Giải trái oan sạch tội
tiền khiên. (KGO)
Chí Tôn xá tội giải
oan,
Thánh, Thần, Tiên,
Phật cứu nàn độ căn.
Ơn Tạo hóa tha tiền
khiên trước,
Đưa linh phan tiếp
rước nguyên nhân." (KCBCTBCHĐQL)
2 . Đức Chí Tôn đặc ân cho các tín
đồ Cao Đài, khi chết, linh hồn được Cửu vị Tiên Nương hướng dẫn đi lên 9 từng
Trời của Cửu Trùng Thiên, mỗi nơi đều được quan sát các cảnh Trời đẹp đẽ mà
dưới thế gian không bao giờ có, đến bái kiến các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật,
đến Minh Cảnh Đài để xem xét tất cả hành vi thiện ác của mình đã gây ra trong
suốt kiếp sống nơi cõi trần, đến DTC ở từng Trời Tạo Hóa Thiên để bái kiến Đức
Phật Mẫu, rồi tiếp tục đi lên Ngọc Hư Cung bái kiến Đức Chí Tôn để cây Cân công
bình thiêng liêng của Tòa Tam Giáo cân tội phước.
Phước nhiều thì được phong thưởng
bằng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng. Nếu tội nhiều thì bị đưa đến
cõi Âm Quang, vô Tịnh Tâm Xá mà định tâm tịnh trí xét mình, cầu nguyện Đức Chí
Tôn độ rỗi. Tại đây có Thất Nương DTC giáo hóa các nữ tội hồn và Đức Địa Tạng
Vương Bồ Tát giáo hóa các nam tội hồn.
3. Đức Chí Tôn cho đóng cửa Địa
ngục. Các tội hồn không còn bị hành hình thảm khốc nơi Địa ngục như trước nữa,
mà được đưa đến cõi Âm Quang để học Đạo, cầu khẩn Đức Chí Tôn cứu rỗi, chờ ngày
tái kiếp trở lại cõi trần để trả cho xong nghiệp quả.
4. Đức Chí Tôn cho mở cửa Cực Lạc
Thế Giới để rước những người đầy đủ công đức đắc đạo. Nếu người nào quyết chí
tu hành, chỉ trong một kiếp tu cũng có thể đắc đạo. “ Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại trong càn khôn thế
giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.”
Đóng Địa ngục, mở tầng Thiên,
Khai đường Cực Lạc, dẫn miền Tây phương. (KGO) 5. Những người bị tội Tận đọa
Tam đồ bất năng thoát tục được ân xá, những người bị tội Ngũ Lôi tru diệt, cũng
nhờ Đại Ân Xá nầy mà được Đức Phật Mẫu huờn lại chơn thần, tất cả đều đặng tái
kiếp lập công chuộc tội.
Thời kỳ Đại Ân Xá không phải kéo
dài đến thất ức niên (700 000 năm) mà chỉ được giới hạn trong khoảng thời gian
từ ngày Khai Đạo cho đến khi Đức Di-Lạc Vương Phật mở Đại Hội Long Hoa là chấm
dứt, vì đã bước vào một thời kỳ tiến hóa khác của nhơn loại.
Chúng ta hôm nay gặp Đạo Cao Đài,
được làm môn đệ của Thượng Đế, là một duyên may ngàn năm một thuở, nếu không
mau mau bước chân vào cửa Đạo lo việc tu hành, lập công bồi đức, cứ để dần dà
ngày tháng trôi qua, có mong chi đắc đạo trở về ngôi vị cũ.
C . Hai giai đoạn tu hành
Trong công việc tu hành, phải
trải qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn làm công quả.
- Giai đoạn luyện đạo.
1). Giai đoạn làm công quả. Làm
công quả là làm tất cả công việc có tính cách giúp người giúp đời mà không nhận
sự đền đáp bằng tiền bạc hay vật chất nơi cõi trần nầy, mà chỉ mong nhận được
kết quả tốt đẹp cho phần linh hồn nơi cõi thiêng liêng.
Trong việc công quả nầy, trước
hết là phải lo phổ độ nhơn sanh bỏ ác theo lành, nhập môn vào Đạo, và tiếp theo
là lo giúp đỡ nhơn sanh về đời sống vật chất và tinh thần, gọi chung là phụng
sự nhơn sanh. Giai đoạn làm công quả nầy còn được gọi là : Ngoại giáo công
truyền.
Chúng ta tùy theo khả năng và sở
thích, có thể lựa một trong ba cơ quan để làm công quả sau đây :
A) Cửu Trùng Đài :
Chúng ta làm công quả đi từ phẩm
thấp nhất là Đạo hữu, lần lần lên Chức việc Bàn Trị Sự. Khi đủ công nghiệp thì
cầu phong lên hàng Lễ Sanh, rồi tiếp tục làm công quả để tiến lên hàng Thánh
thể của Đức Chí Tôn, sau cùng được thăng lên các phẩm cao cấp là : Đầu Sư,
Chưởng Pháp, đứng vào Tiên vị. Làm công quả để tiến hóa như vậy gọi là đi theo
phẩm trật Cửu phẩm Thần Tiên hay Cửu Thiên Khai Hóa. Trong số các Chức sắc tiền
bối, Ngài Đầu Sư Ngọc Nhượn Thanh (1906-1985) đã làm công quả trong hơn 30 năm,
đi từ phẩm Đạo hữu, rồi Chánh Trị Sự và sau cùng lên tới phẩm Đầu Sư.
B) Hiệp Thiên Đài :
Nếu chúng ta muốn làm công quả
nơi Hiệp Thiên Đài thì phải thi tuyển vào phẩm Luật Sự của Bộ Pháp Chánh, rồi
dần dần lập công, thăng lên phẩm Sĩ Tải, đi hết 7 phẩm cấp của Bộ Pháp Chánh là
đến Tiếp Dẫn Đạo Nhơn, sau cùng có thể tiến lên phẩm vị Thời Quân khi có công
phổ độ một nước, và được ân phong đặc biệt của Đức Chí Tôn.
c) Cơ Quan Phước Thiện : Nếu muốn
lập công nơi CQPT, chúng ta phải xin giấy chứng nhận do Bàn Trị Sự và Tộc Đạo
nơi mình ở cấp cho, rồi nạp hồ sơ vào cơ sở Phước Thiện mà mình muốn lập công,
làm Tờ Hiến Thân vào Hội Thánh Phước Thiện. Người mới vào làm công quả nơi cơ
sở lương điền hay công nghệ của CQPT thì gọi là Đạo sở. Sau thời gian 6 tháng
thì được vào Minh Đức, là phẩm thấp nhứt trong Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng
của CQPT. Làm công quả nơi CQPT gọi là tiến hóa theo Thập nhị đẳng cấp th.
liêng.
* Ngoài ra những vị Đạo hữu nào
có tay nghề chuyên môn đặc biệt như nghề đờn, nghề xây dựng, . . . thì có thể
xin lập công quả nơi các cơ quan chuyên môn của Đạo như : Bộ Nhạc Lễ, Ban Kiến
Trúc, vv. . . .
2). Giai đoạn tu luyện. Khi đã
lập công bồi đức đầy đủ rồi thì mới được tuyển vào Tịnh Thất, có Tịnh chủ dạy
cho luyện đạo.
Trong phép luyện đạo của Đạo Cao
Đài, Tịnh chủ dạy cho cách luyện Tam bửu Tinh Khí Thần hiệp nhứt, để được Tam
hoa tụ đảnh, Ngũ khí triều nguơn, tạo được chơn thần huyền diệu, có thể xuất
nhập thể xác tùy ý mà vân du đến các cõi thiêng liêng. Ấy là đắc đạo tại thế.
Nhưng làm sao biết được có công
đức đầy đủ ?
Đức Phạm Hộ Pháp giải thích : “
Trước khi vào tịnh thì phải có đủ Tam Lập : Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn.
Nơi cửa Đạo đặt ra việc chi đều
hữu ích cả, mượn Thể Pháp tượng trưng mới đoạt Bí Pháp. Trước kia Bần đạo Lập
Phạm Môn tại Tòa Thánh tượng trưng cửa Phật độ sanh hồn, tức nhiên gọi Phật;
Minh Thiện Đàn mở tại Khổ Hiền Trang, Bần đạo khai Thể Pháp tại đó, gọi là
Pháp, Phước Thiện ngày nay đã ra thiệt hiện, tức nhiên ra mặt xã hội, gọi là
Tăng, thì nó sẽ bành trướng vận chuyển lưu hành cùng khắp xã hội nhơn quần,
nghĩa là phải phụng sự toàn thể chúng sanh, tế khổ phò nguy, đi Đầu Họ Đầu Quận
làm hậu thuẫn cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài, lo cơ tận độ, chỉ có công phổ độ mới
giải quả tiền khiên. Ai không xuất thân hành đạo, tức là không có công phổ độ
thì không vào tịnh được, vì không đủ Tam Lập.
Trước khi xin vào, phải nạp tất
cả giấy tờ hành đạo, lai lịch từ thuở nhỏ đến trưởng thành, ở ngoài Đời không
án tiết, trong cửa Đạo cũng vậy, trọn tùng luật pháp Đạo và trường trai mới
được, rồi giao cho Pháp Chánh minh tra về Thể Pháp đủ bằng chứng.
Chi Pháp phải giữ hồ sơ của mỗi
người, còn nhiều điều trọng yếu về vô vi, không thế gì Chi Pháp biết đặng,
chiếu văn kiện thì đầy đủ lắm vậy, Chi Pháp chỉ biết văn bằng hiện hữu về mặt
hữu hình mà thôi.
Khi minh tra đủ lẽ, mới giao cho
Hộ Pháp cân thần, nếu vị nào đủ Tam Lập thì vào tịnh được, bằng thiếu thì trở
lại đi Đầu Họ, Đầu Quận, đi hành đạo nữa.
Nói rõ là phải có Hộ Pháp trục
thần khai khiếu mới biết đặng đủ hay thiếu Tam Lập, còn không thì ngồi tịnh,
bụng lớn vô ích.” (Trích Diễn Văn và Thuyết đạo ĐHP trang 163)
Chú thích : CÂN THẦN : Cân thần
là Đức Hộ Pháp trục chơn thần của một vị công quả để Đức Ngài dùng cặp mắt
thiêng liêng xem xét tánh chất của vị công quả đó. Có tất cả 12 tánh chất :
1 . Hạnh
2 . Đức
3 . Trí
4 . Lực
5 . Tinh
6 . Thần
7 . Thân
8 . Tín
9 . Mạng
10 . Căn
11 . Kiếp
12 . Số
Đức Hộ Pháp chỉ cần 4 tánh chất
đầu. Thí dụ nếu có được :
1. Hạnh : 5 điểm.
2. Đức : 6 điểm.
3. Trí : 4 điểm.
4. Lực : 7 điểm.
Tổng cộng : 22 điểm, chia 4 để
lấy trung bình = 5,5 điểm.
Như vậy là đậu, tức là xem như "đủ
Tam lập". Giai đoạn học Bí pháp luyện đạo trong Tịnh Thất còn được gọi là
: Nội giáo vô vi, hay Tâm pháp bí truyền.
D . Phương pháp tu hành thời Đại
Ân Xá
Tuy Đức Phạm Hộ Pháp đã dự bị
Tịnh Thất để lo về phần luyện đạo, nhưng trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí
Tôn, Đức Chí Tôn miễn cho phần luyện đạo, nghĩa là : các môn đệ của Đức Chí Tôn
chỉ lo làm công quả, phụng sự nhơn sanh, đến khi thoát xác thì Đức Chí Tôn sẽ
căn cứ trên Bộ Công quả của mỗi người (do chư Thần, Thánh biên chép) mà Đức Chí
Tôn sẽ ban những phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật tương xứng.
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn : “ Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm
phương thế mà làm ra của. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc đạo phải có
công quả. Thầy đến độ rỗi các con là thành lập một trường công đức cho các con
nên Đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu
chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác
mà đắc đạo bao giờ.” (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 17)
Tuy Đức Chí Tôn không nói trắng
ra là bỏ môn luyện đạo, nhưng Đức Chí Tôn cấm chúng ta luyện đạo, và lập một
trường thi công quả cho chúng ta đắc đạo. Điều nầy đã quá rõ rồi. Cho nên, nếu
trong chúng ta có người còn lo ngồi thiền luyện đạo trong thời kỳ Đại Ân Xá nầy
thì chỉ mất thời giờ quí báu của đời sống một cách vô ích.
Tùy theo công quả nhiều ít mà Đức
Chí Tôn lập ra 4 cấp giải thưởng : Thần, Thánh, Tiên, Phật. Công quả càng nhiều
thì phẩm vị càng cao.
Trong thời kỳ nầy, khi chúng ta
lo làm công quả phụng sự nhơn sanh thì giống y như là chúng ta ký hợp đồng làm
mướn cho Đức Chí Tôn, không phải để lấy tiền, mà là để đổi lấy phẩm vị thiêng
liêng, bằng cách phụng sự các con cái của Người về tất cả các phương diện : đời
sống vật chất, tinh thần và linh hồn.
Nhưng điều quan trọng trước tiên
là phải tìm cách phổ độ, đem con cái của Người từ đường dữ trở lại đường lành,
nhập môn vào cửa Đạo, ăn chay hành thiện.
- Về Đời sống vật chất : Đói phải
cho ăn, rách phải cho mặc, lạnh phải cho mùng mền, bịnh phải cho thuốc, . . vv
. . . Đó là việc làm của các vị công quả trong CQPT.
- Tinh thần đau khổ, buồn chán,
thì phải có người an ủi, vỗ về, giải thích cho biết con người nơi cõi trần phải
chịu trong vòng Tứ Khổ và lẽ luân hồi quả báo, cố gắng vượt qua để rồi sẽ gặp
điều vui sướng tốt đẹp. Đó là công việc giáo hóa của các Chức sắc Cửu Trùng
Đài.
Hai phần trên gọi là Độ Sanh, tức
là cứu giúp về phần đời sống của thể xác, đến khi chết còn phải Độ Tử nữa, tức
là cứu giúp phần linh hồn.
- Khi nhơn sanh có người chết thì
Bàn Trị Sự hương đạo và bổn đạo làm công quả phải lo kinh kệ độ hồn, cầu siêu,
làm các phép bí tích, vv . . . rồi phải lo chôn cất, xong rồi phải làm Tuần
cửu, Tiểu tường và Đại tường mãn tang.
Lo cho các con cái của Đức Chí
Tôn được như vậy mới là trọn vẹn, và chắc chắn Đức Chí Tôn sẽ trả công cho
chúng ta rất xứng đáng.
E. Cách lập Thiên vị: Tu Tam lập
Thiên vị là phẩm vị nơi cõi Trời,
tức là phẩm vị nơi cõi thiêng liêng hằng sống.
Tam lập là ba điều lập nên, không
bao giờ hư hoại, nên được gọi là Tam bất hủ, được truyền mãi về sau.
“ Con người sanh ra trên mặt địa
cầu nầy mà không có Tam lập (Lập đức, Lập công, Lập ngôn) thì giá trị con người
không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã
hội nhơn quần được.
Nếu con người không có Đức thì làm
sao xử sự trong gia đình và ngoài xã hội đặng.
Người không có Công thì ở với ai
cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không
làm gì có nghĩa với người, với đời thì sống với ai ?
Cũng như người ta chơn chất thật
thà, hiền lương đạo đức, còn mình thì xảo ngữ, lường gạt, không chút dạ nhơn
từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì
sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi. “
(TĐ.ĐPHP)
Muốn lập phẩm vị cho mình nơi cõi
thiêng liêng trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn thì chúng ta phải tu Tam
lập. Đức Chí Tôn đã miễn cho môn luyện đạo, nên người tín đồ Cao Đài chỉ cần đủ
Tam Lập là đắc đạo.
Sau khi chấm dứt thời kỳ Đại Ân
Xá, tín đồ có đủ Tam Lập phải vô Tịnh Thất luyện đạo thì mới đắc đạo.
Trong Tam Lập, ba Lập ấy tương
quan mật thiết với nhau, khó tách rời ra được, vì nếu tách riêng ra thì không
thể thi hành. Cho nên, khi nói Lập đức hay nói Lập công thì chúng ta ta ngầm
hiểu là phải bao gồm cả Tam lập.
Trong bài Kinh Tụng Cha Mẹ đã qui
liễu, có câu :
" Thong dong cõi
thọ nương hồn,
Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa."
Chữ Lập đức trong câu kinh nầy,
chúng ta phải hiểu bao gồm cả Tam lập : lập đức, lập công, lập ngôn.
Câu kinh trên cho chúng ta biết
rằng, một người dù nam hay nữ, nếu quyết chí tu hành, phế bỏ việc đời, hiến
thân hành đạo, miệt mài lập đức bồi công, thì nhứt định sẽ cứu được Cửu Huyền
Thất Tổ và cứu được cả linh hồn của cha mẹ thoát khỏi cảnh đọa đày và được siêu
thăng lên cõi thiêng liêng hằng sống.
Có ba chứng minh sau đây của ba
vị :
- Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu
- Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung
- Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.
1 - Bài Thánh ngôn Đức Chí Tôn
dạy Bà Hương Hiếu đi hành đạo, ngày 7 - giêng - Bính Dần (1926) :
“ Đức Chí Tôn dạy Bà Hương Hiếu
đi hành đạo, phổ độ nhơn sanh. Bà Hương Hiếu bạch với Thầy rằng :
- Má con mắc ở xa, làm sao con đi
độ được ?
Thầy : " - Hiếu ! Con biết một lòng tu niệm đạo đức của con đủ cứu Cửu
Huyền Thất Tổ rồi, huống là mẹ con, để Thầy định đoạt, con đừng lo buồn.”
(Trích ĐS. I. 36)
2 - Trong một đàn cơ, Đức Quyền
Giáo Tông Lê Văn Trung hỏi Bát Nương : - Bát Nương vui lòng cho biết : Thân phụ
và thân mẫu của Qua có được siêu thăng không ? Giờ đây ở đâu ?
Bát Nương đáp : - Em chỉ nói bằng
thơ, nếu anh giảng trúng thì nói nữa, còn trật thì lui.
Đức Quyền Giáo Tông năn nỉ :
- Nếu Qua nói trật thì Em thương
tình mà chỉ dẫn để cho Qua học thêm với.
Bát Nương nói :
"Bạch Y Quan nay sanh Cực Lạc,
Bá phụ cùng bá mẫu
đặng an. "
Đức Quyền Giáo Tông nói : - Như vậy là thân phụ
và thân mẫu của Qua trước ở cõi Bạch Y Quan, nay đã sang ở yên nơi Cực Lạc Thế
Giới.
- Đúng đó, ấy là nhờ công tu
luyện của anh nên bá phụ và bá mẫu siêu thăng nơi Cực Lạc.
3 - Thân mẫu của Ngài Bảo Pháp Nguyễn
Trung Hậu xin phép Đức Chí Tôn giáng cơ để tỏ cho Ngài Hậu biết, nhờ công quả
của Ngài mà Bà được siêu thăng lên Đông Đại Bộ Châu. Ngày 19-2-1929 (âl 10-1-Kỷ
Tỵ).
Phò loan: Bảo Pháp-Hiến Pháp.
Mẹ mừng con, Mẹ cám ơn con đó.
Con đâu rõ đặng, ngày nay Mẹ nhờ
công con mà đặng thăng cấp. Nay Mẹ đặng vào Đông Đại Bộ Châu. Ấy cũng nhờ ơn
của Chí Tôn rất thương mà cho Mẹ vào phẩm ấy. Mẹ chẳng biết lấy chi mà thông
công cho hai con và các cháu, nên mới dụng huyền diệu mà Mẹ đã cầu xin Chí Tôn
ban cho Mẹ đặng cho con cùng cháu hay rằng, Đức Chí Tôn đã giữ lời hứa cùng
con. Nay Mẹ đến khuyên hai con khá lo sao cho tròn phận sự, ngày thêm vun đắp
nền Đạo đặng báo đáp Ơn Trên đã hết lòng vì cả nhà ta. Nếu con có lòng ấy thì
Mẹ rất vui lòng đó, con hiểu . . .
Mẹ rất vui thấy lòng con nên Mẹ
mới xin phép Chí Tôn đến đây tỏ ít lời cho con hiểu. Vậy con khá an lòng mà lo
Đạo, chớ nên vì việc nhỏ mà nao chí nghe !
Tôi chào nhị vị Thánh (nói với
Nghĩa và bác vật Lang). Tôi chẳng biết lấy chi cám cảnh cho bằng dùng vài lời
nhắc đây : Xin nhị vị khá hết lòng lo hiệp tác mà nâng cao địa vị mình càng
ngày cho tột phẩm.
Tôi đây chẳng chi xứng phận mà
cũng nhờ ơn Chí Tôn thương tưởng thay! Ấy cũng nhờ sức con mới đặng vậy, không
thì biết sao mà kể xiết.
Ấy đó, công của nhị vị càng dày
thì Chí Tôn càng yêu dấu. Xin khá để hết tâm chí mà hành phận sự. Ấy là lời tôi
xin nhị vị khá để ý. (Hỏi về việc ông thân tôi, Ngài Bảo Pháp hỏi.)
- Mẹ không dám nói. Thôi Mẹ lui.
(Trích Thánh Ngôn chép tay của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu)
Ba câu chuyện của Bà Nữ Đầu Sư
Hương Hiếu, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu đã
minh chứng câu : “ Nhứt nhơn đắc đạo Cửu Huyền thăng.” (một người tu hành đắc
đạo thì Cửu Huyền Thất Tổ của người đó đều được siêu thăng).
Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng
giải về Tam Lập, trích ra sau đây :
" - Mình học để biết Đạo là
Lập Đức, nói Đạo cho thân tộc mình biết là Lập Công, độ toàn nhơn loại là Lập
Ngôn. Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí Tôn bằng con đường Cửu Thiên
Khai Hóa."
" - Lập Đức thì phải nhớ đạo
lý. Lập Công thì phụng sự nhơn sanh. Lập Ngôn thì để hết trí óc tìm hiểu về
triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh Chánh giáo."
" - Phương pháp Tam Lập, nói
rõ ra là chỉ đem mảnh thân nầy làm tế vật cho Đức Chí Tôn đặng phụng sự nhơn
loại. Nếu giải rõ rất nhiều chi tiết, để có dịp Bần đạo sẽ thuyết minh hoặc
viết sách in ra cho học hỏi."
" Còn mấy em đây là trung
phẩm chi nhơn, giáo nhi hậu thiện, mấy em tạo thiện đức được là biết nghe lời
Hội Thánh. Người ta có tài thì làm việc hay, còn mình dở thì làm việc thường.
Bần đạo tỉ dụ một việc thường để
cho mấy em dễ hiểu. Phận mình dốt thì làm theo dốt. Muốn tạo thiện đức, thiện
công, thiện ngôn, là như vầy :
Mình nghe đâu có cất chùa, thì mình
tự tính đi đến đó xin làm công quả. Mình nghe đâu đó bị tai nạn khốn khổ thì
trong đêm ấy nằm tính và thương xót, nghe chỗ đó bị tai nạn, mình định sáng
ngày mai, rủ anh em hay tự mình đi, dầu sáng ngày tằm sắp chín hoặc có mối lợi
gì đó cũng bỏ đi, để đến trợ giúp tai nạn. Đó là thiện đức, nghĩa là khi mình
tính.
Khi đến, mình nói như vầy : “Thưa
anh, tôi nghe anh bị tai nạn, tôi đến để xin phép giúp anh một ngày, hoặc là
vác một cái cây, hoặc giúp một đồng bạc, vậy thì anh vui lòng cho tôi giúp với một
nghĩa mọn.” Khi mình nói là Thiện ngôn, khi mình làm là Thiện công. Chớ không
phải ỷ có tiền rồi nói sổ sàng : “Đây tôi cho anh một đồng mua gạo ăn đỡ đói.”
Như vậy là chưa Thiện ngôn.
Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài, trong
buổi đầu là thời kỳ Đại Ân Xá, nên Đức Chí Tôn lập một trường thi công quả (hay
trường thi công đức) cho nhơn sanh đắc đạo.
Đức Chí Tôn miễn cho môn thi
luyện đạo vì môn nầy rất khó, chỉ cần có đủ công quả là Đức Chí Tôn cho đắc
đạo.
Việc lập công quả hay công đức là
thuộc về Tam Lập, vì Lập đức, Lập công và Lập ngôn gắn liền nhau, không thể
tách rời ra từng phần được. Do đó, thi Lập công quả hay thi Lập công đức chính
là thi Tam Lập.
Người tín đồ Cao Đài là những sĩ
tử tham dự kỳ thi nầy, nên cần phải luyện tập ba môn thi nói trên cho hay cho
giỏi. Làm bài trúng, được điểm cao, được chấm đậu thì Đức Chí Tôn ban thưởng
cho các phẩm vị tương xứng.
Nếu các sĩ tử không lo rèn luyện
các môn thi chánh thức nầy, lại xem thường nó, rồi rèn luyện các môn khác không
sử dụng trong kỳ thi như môn Luyện đạo, thì rất uổng phí thời gian cho một kiếp
sanh may duyên gặp Đạo.
Trong kiếp sanh nầy, muốn đắc đạo
tức là thi đậu thì phải lo học tập và thực hành Tam Lập. Việc nầy cũng rất khó
khăn, nhưng không phải không làm được, muốn thực hiện thì phải có một quyết tâm
lớn, một ý chí kiên cường nhẫn nại và một tấm lòng hy sinh.
- Quyết tâm là để không lùi bước
trước khó khăn, vượt qua các thử thách do bọn Tà quyền gây nên.
- Ý chí kiên cường nhẫn nại là để
thắng dục vọng thấp kém, tình cảm yếu hèn của mình, kềm hãm lục dục thất tình,
hướng chúng vào đường cao thượng.
- Lòng hy sinh là để thắng cái Ta
hẹp hòi ích kỷ. Hy sinh là để hiến dâng tất cả những gì quí báu của đời mình
cho Đạo pháp, cho nhơn sanh. Sự hy sinh đó sẽ làm dứt hết các phiền não, đem
lại cho tâm hồn sự an lạc nhẹ nhàng.
TNHT : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
chẳng khác chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường
sáng sủa, giồi tâm, trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy thì mới đạt đặng địa
vị thanh cao trong buổi chung qui đó. (TNHT 1-2 hợp nhứt, B 48).
Lập Đức.
Nói riêng về việc Lập đức, trong
Đạo Cao Đài, muốn lập đức cho được trọn vẹn thì phải theo con đường Thập nhị
đẳng cấp thiêng liêng của Cơ Quan Phước Thiện.
Trong Con Đường thiêng liêng hằng
sống, Đức Phạm Hộ Pháp thuyết đạo giảng giải như sau : " Lập vị mình theo
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng, tức là theo Hội Thánh Phước Thiện. Nơi đây,
ngoài việc ăn chay, giữ gìn luật đạo, tùng theo chơn pháp của Đức Chí Tôn, còn
phải dùng đức để lập vị mình.
Muốn lập đức, phải đi từ Minh
Đức, Tân Dân, Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Chí Thiện, vv. . .
Lập đức là gì ? là dùng sự thương
yêu để cứu độ chúng sanh, mà Đức Chí Tôn đã có nói : “ Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh”.
Các đẳng chơn hồn tái kiếp đang
chơi vơi trong Tứ Khổ. Muốn thoát khổ, họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng
khổ. Người tu đi theo Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng là dạy người ta thọ khổ để
thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ, trước hết mình phải thọ khổ đã. Muốn thọ
khổ thì không gì hay hơn là dùng đức thương yêu. Cho nên bậc thứ nhứt của Thập
nhị đẳng cấp thiêng liêng là Minh Đức. Có thương yêu mới thọ khổ được. Ta
thương cha mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng cha mẹ lúc tuổi già, ta thương
con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật
nguyền, ta mới tầm phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp đỡ họ là thọ khổ đó
vậy.
Thọ khổ rồi mới thắng khổ. Thọ
khổ không phải một ngày một bữa, mà phải thọ đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi
cha mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ bé cho tới lúc nó tự lo cho nó được. Hai
điều đó còn dễ, đến lo cho thiên hạ hết khổ mới khó, vì khi lo cho người nầy
thì lại đến người khác, và cứ như vậy, trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ.
Có thắng khổ mới về được với Đức
Chí Tôn bằng con đường Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng.” Có học mới biết phương
Lập đức.
Đức có Đại đức và Tiểu đức. Đại
đức như nước biển cả, thấm đều khắp muôn vật. Tiểu đức như nước trong ao, thấm
có giới hạn. Tiểu đức chỉ cảm hóa ít người; Đại đức bao trùm cả thiên hạ.
Muốn Lập đức thì nên lấy bố thí
làm phương tiện.
Bố thí gồm : thí tài, thí công,
thí ngôn, thí pháp.
Thí tài là đem tiền của ra giúp
khó trợ nghèo.
Thí công là đem sức lực ra làm
việc giúp người.
Thí ngôn là đem lời nói mà giúp ý
kiến hay cho người để giải quyết những khó khăn của người.
Thí pháp là đem lẽ Đạo thuyết
minh để cảm hóa, giáo dục người trở nên lành. Những cách bố thí trên, chỉ có
Thí pháp là có nhiều công đức hơn cả.
Giúp người đói, giúp người hết
khổ hay thoát khỏi tai nạn, cũng chỉ qua một thuở mà thôi, duy chỉ có đem đạo
lý ra hóa độ người dữ ra hiền, người mê muội ra giác ngộ, lo tu hành để thoát
vòng sinh tử luân hồi thì công đức ấy đời đời chẳng mất.
Lập đức phải đứng trên quan điểm
VÔ NGÃ, tức là quên mình mà lo cho người, chẳng cầu người trả, chẳng nghĩ đó là
công đức do ta làm.
Muốn lập đức trên phương diện Thí
pháp, cần phải có quyết tâm lớn trên đường tu học. Phải học cho thông, phải
hiểu cho rành, quán thông từ Nhơn đạo đến Thiên đạo. Phải cầu bậc cao minh mà
thọ giáo. Chớ nên tự mãn, mới học nhom nhem nửa câu mà tự cho rằng mình biết
hết, rồi đem cái biết thô thiển đó truyền thụ cho người thì tai hại vô cùng,
không lập đức được mà lại còn tổn đức.
Ngày nào học thông chánh lý, lòng
thông suốt, trí hiểu rành, chẳng còn gì trái với chơn ý của Thánh nhân, ấy là
thể theo Thánh nhân mà nói lại lời của Thánh nhân.
Nếu là kẻ mê tín thì ta lấy Chánh
tín mà độ họ; nếu là kẻ tư dục thì ta đem công lý giải bày; nếu là kẻ tham lam
thì ta đem việc Thí tài mà giảng giải; nếu là kẻ sân hận thì ta đem pháp nhẫn
nhục mà độ; nếu gặp kẻ chẳng may lạc vào Tả đạo Bàng môn thì ta đem Chánh đạo
mà khai hóa; nếu là người si mê thì ta đem Chánh lý mà mở mang trí tuệ cho họ.
Giáo dục có nhiều phương pháp,
phải tùy duyên mà hóa độ, tùy bệnh mà lập phương trị liệu, bệnh nào thuốc nấy.
Chữa bệnh về thân xác thì có lương y; chữa bệnh về Tâm thì chỉ có Thánh nhân.
Thánh nhân chữa cả Tâm lẫn thân, thân tâm hiệp trị. Nếu thân chưa trị thì Tâm
khó trị. Vì vậy nên thân Tâm phải hiệp trị.
Khi lập đức thì phải lập từ đức
nhỏ đến đức lớn.
Đức nhỏ là hóa độ người trong
nhà. Đức lớn là cảm hóa nhiều người trong thiên hạ. Đức lớn là đức của bậc
Thánh nhân, đức nhỏ là đức của bậc Sĩ, bậc Hiền.
Đức lớn sáng soi khắp Trời Đất,
chói lọi như ánh Thái dương, nên gọi là Minh Minh Đức. Có Minh Minh Đức mới xây
dựng được một thế hệ tươi đẹp, mới đào tạo được giống dân mới gọi là Tân Dân.
Tân Dân cũng là thân dân, là thương người như thương mình hay như thương người
thân của mình. Vua Nghiêu hằng nói với quần thần : “ Các Khanh hãy thương yêu
dân như thương yêu Trẫm, dân đói là Trẫm đói, dân rét là Trẫm rét.”
Như vậy, đời sao không thạnh trị
? Quần thần khi nghe lời nói của Đấng Minh quân như thế thì ai mà chẳng xúc
động. Toàn thể quốc dân nghe được lời nói của vua như thế thì ai mà chẳng động
lòng. Động lòng vì Đức cả, Nhân lớn, nên cả thảy đều lo tích Đức tu Nhân, mọi
người đều no cơm ấm áo. Chẳng còn nghèo, chẳng còn đói, thì đâu còn cảnh trộm
cướp, mà chỉ đua nhau làm Nhân, làm Nghĩa, nên nhà nhà không đóng cửa, ngoài
đường không ai lượm của rơi, người người thảnh thơi mà an hưởng cảnh thanh bình
trời Nghiêu đất Thuấn.
A). Định Nghĩa Lập Công.
Lập Công là đem sức lực và sự hiểu biết của
mình ra làm việc phụng sự nhơn sanh.
Việc Lập Công chia làm 3 phần : Công phu, Công
quả, Công trình.
Phần Công quả là quan trọng hơn cả, vì Đức Chí
Tôn có nói nhiều lần rằng : Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là lập một
trường thi công quả cho nhơn sanh đắc đạo. Đắc đạo cùng chăng là do công quả.
Muốn làm giàu thì phải tìm cách làm ra của cải cho nhiều, muốn làm Tiên Phật
thì phải có công quả.
Công quả muốn được chánh danh và đúng nghĩa thì
phải là công quả xuất phát từ lòng tự giác tự nguyện, thiết tha với nó, xem nó
là nguồn sống,là mục đích của đời mình.
Mỗi người tùy theo khả năng chuyên môn mà làm
công quả. Trong đạo có biết bao nhiêu công việc, đủ mọi ngành nghề, đủ mọi
trình độ, từ lao động trí thức cho đến lao động chân tay, ai có sở trường trong
công việc nào thì xin vào làm công việc đó cho đạt được mau chóng nhiều kết quả
tốt đẹp.
TNHT : " Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào
có trí lực bao nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi,
vậy cũng uổng cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm." (TNHT 1-2
hợp nhứt, B 74)
Và Đức Chí Tôn cũng có hứa rằng : " Bao nhiêu công quả bấy nhiêu phần."
Hành đạo nơi Cửu Trùng Đài chủ yếu là Lập công
để lập Thiên vị của mình nơi cõi thiêng liêng. Muốn Lập công cho kết quả mỹ
mãn, người tín đồ cần lưu ý các điều sau đây :
- Thứ nhứt, tự rèn luyện khả năng hiểu biết đạo
lý để dẫn dắt người chưa biết đạo hay chưa hiểu đạo đi vào con đường đạo đức
như mình. Đó là tự giác nhi giác tha, tức là mình tự giác ngộ lấy mình rồi sau
giác ngộ người khác.
- Thứ nhì, phải gìn giữ sức khỏe cho được tráng
kiện, dẽo dai, để làm điều thiện không mệt mỏi, phụng sự Đạo và nhơn sanh không
ngừng nghỉ và đắc lực.
Nếu đau ốm liên miên, chẳng những mình không
lập công được mà lại để cho nhơn sanh giúp lại mình, tự nhiên mình phải mất
phần công đức hay mang nợ nhơn sanh.
B). Công phu. Phần Công phu gồm hai việc :
- Học tập kinh sách để thông hiểu giáo lý và
luật pháp của Đạo.
- Cúng Đức Chí Tôn vào Tứ thời : Tý, Ngọ, Mẹo,
Dậu.
a. Học tập kinh sách Đạo :
Kinh thì có Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.
Luật thì có Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Bát
Đạo Nghị Định, Đạo Luật năm Mậu Dần, Luật Hội Thánh.
Giáo lý thì có các sách : TNHT 1 và 2, Thánh
Ngôn Sưu tập, Thuyết Đạo của Đức Phạm Hộ Pháp, Giáo lý của Tiếp Pháp Trương Văn
Tràng, Thiên Đạo của Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, Chánh Trị Đạo của Khai Pháp
Trần Duy Nghĩa, vv...
Việc học tập kinh sách có mục đích mở mang thể
Trí của tín đồ.
b. Cúng Đức Chí Tôn vào Tứ thời :
Chúng ta cố gắng cúng Đức Chí Tôn nơi Thiên bàn
tại nhà chúng ta vào Tứ thời : Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu. Nếu còn bổn phận lo lắng
nhiều về công quả thì cũng phải ráng cúng mỗi ngày được 2 thời.
Việc Tứ thời Công phu nầy rất quan trọng, vì
lúc đó chơn thần chúng ta hấp thụ thanh điển của Trời. Như vậy, việc công phu
hằng ngày giúp cho người tín đồ sớm mở được Trí huệ, tức là cái trí càng ngày
càng thêm sáng suốt.
C). Công quả.
Tất cả việc làm giúp người giúp đời mà không
nhận sự đền đáp, phụng sự Đạo, phụng sự nhơn sanh, dù phạm vi nhỏ hay lớn, đều
gọi là Công quả, vì những việc nầy tạo ra kết quả tốt đẹp cho linh hồn nơi cõi
thiêng liêng.
Công quả muốn được chánh danh và đúng ý nghĩa
của nó thì phải là công quả phát xuất từ lòng tự nguyện, thiết tha với nó, xem
nó là mục đích của đời mình.
Thường thấy nơi thế gian nầy có những thứ công
quả mà người có tiền mượn làm, người không tiền đi làm giùm. Nếu giá trị công
quả ấy đúng với lẽ công bình của Tạo hóa thì Thái tử Sĩ Đạt Ta ngày xưa có thể
mở kho đem các vật báu ra mượn người khác làm giùm cho mình đắc đạo, cần chi
phải bỏ ngôi Thái tử, đi chu du thí pháp.
Cái giá trị của Công quả là phải từ tận đáy
lòng, thiết tha phát khởi mà làm, dầu có phương tiện hay hoàn cảnh giàu sang,
dầu trong cảnh nghèo nàn túng bấn, mà tận đáy lòng mình thiết tha với công quả
thì công quả ấy mới có giá trị cao và bền vững. Điều cần nhứt trong việc lập
công quả là không nên khoe khoang cho người ngoài biết, nên làm việc âm thầm để
công quả ấy là âm chất hay âm công thì người làm mới hưởng được trọn vẹn nơi
cõi thiêng liêng.
Mình phải vừa làm công quả, vừa kêu gọi người
khác làm chung với mình, chớ không phải đưa ra giải pháp cho người khác làm,
trong lúc đó mình đi làm việc khác.
Làm công quả phụng sự nhơn sanh là thể hiện đức
tánh Từ Bi. Càng làm công quả thì thể Bi trong mỗi người chúng ta càng phát
triển và phải tiếp tục làm cho nó phát triển mãi, để cuối cùng hòa nhập được
vào khối thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn.
C). Công trình.
Công trình là việc lập hạnh tu hành, bao gồm
việc gìn giữ giới luật như : Ngũ Giới Cấm, Tứ Đại Điều Qui, Thế Luật, việc ăn
chay kỳ hay ăn chay trường.
Việc lập hạnh đòi hỏi người tu phải có ý chí
mạnh mẽ, hùng dũng mới thắng nỗi những sự yếu hèn và ham muốn của thể xác, do
lục dục và thất tình xúi giục gây ra. Thể xác lúc nào cũng muốn tự tung tự tác,
sung sướng thoải mái, chớ đâu chịu bó mình trong Giới luật.
Do đó, việc lập hạnh tu hành là thể hiện cái
Dũng của con người. Cần phải dũng cảm chiến thắng sự đòi hỏi buông lung của thể
xác. Không có chiến thắng nào vẻ vang hơn chiến thắng được dục vọng của mình.
Tóm lại :
- Công quả là thể hiện đức BI,
- Công phu là thể hiện đức TRÍ,
- Công trình là thể hiện đức DŨNG.
Tam công: công phu, công quả, công trình, liên
hệ mật thiết nhau, quan trọng như nhau, giống như Bi, Trí, Dũng, không thể tách
rời, không thể bỏ sót phần nào được, mà phải phát triển song song nhau thì sự
tiến hóa tâm linh mới nhanh chóng và mau đắc quả.
3). Lập Ngôn
Lập Ngôn là nói lời chơn thật, chánh đáng, có
đạo đức để người nghe phát tâm theo đạo tu hành.
Lời nói thốt ra từ cửa miệng gây ra Khẩu
nghiệp.
Trong Tam nghiệp : Thân nghiệp, Ý nghiệp, Khẩu
nghiệp, thì Khẩu nghiệp dễ mắc phải nhứt, vì lời nói không mất tiền mua, nên
người ta cứ phát ngôn bừa bãi. Nhưng người tu nên nghĩ rằng : lời nói không tốt
sẽ gây ra Khẩu nghiệp, cũng nặng nề như Thân nghiệp và Ý nghiệp.
Cho nên khi nói ra lời nào, phải suy nghĩ cho
cẩn thận, xem lời nói đó có chơn thật không, có gây thiệt hại hay phiền giận
cho ai không.
Bên Tây phương có một câu cách ngôn làm lời
khuyên rất quí báu : "Trước khi nói hãy uốn lưỡi bảy lần." (Il faut
tourner sept fois sa langue dans sa bouche avant de parler)
Nho giáo có dạy rằng : “Nhứt ngôn khả dĩ hưng
bang, nhứt ngôn khả dĩ táng bang”. (Một lời nói có thể làm nước hưng thịnh, một
lời nói có thể làm nước mất). Câu nói nầy để cảnh giác các vị vua khi nghe lời
tâu cáo của quần thần, phải phân biệt lời nào trung quân ái quốc xây dựng đất
nước, lời nói nào sàm nịnh của kẻ gian thần hại nước.
Nhứt tinh cho hỏa năng thiêu vạn khoảnh chi
sơn, bán cú phi ngôn ngộ tổn bình sanh chi đức. (Một đốm lửa nhỏ có thể đốt
cháy muôn khoảnh núi rừng, nửa câu nói bậy làm hại cả cả đức bình sanh).
Đức Chí Tôn cũng thường dạy : "Thầy dạy
các con phải cẩn ngôn cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành,
hơn là các con nói tội mà phải mang trọng hình đồng thể." (TNHT 1-2 hợp nhứt,
B 144)
Người tín đồ Cao Đài muốn Lập Ngôn đúng đắn thì
phải nghiêm chỉnh tuân theo giới cấm thứ 5 trong Ngũ Giới Cấm : Ngũ bất vọng
ngữ.
" Ngũ bất vọng
ngữ là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện
quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ
khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng thô tục, chửi
rủa người, hủy báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa."
Tóm lại, muốn tạo được ngôi vị thiêng liêng cho
mình thì chúng ta phải tu Tam lập, tức là phải Lập đức, Lập công, Lập ngôn, rồi
lo công phu, công quả, công trình, nói tóm một lời là : Lập thân hành đạo, Xả
thân giúp đời.
Việc xả thân giúp đời có hai sở dụng :
- Trả quả : trả dứt hết các món nợ oan nghiệt
mà mình đã gây ra từ nhiều kiếp trước.
- Lập vị thiêng liêng : công quả càng dày thì
địa vị thiêng liêng càng cao trọng. Tu Tam lập là phương pháp tu cốt yếu của
Đạo Cao Đài trong thời kỳ Đại Ân Xá của Đức Chí Tôn. Khi chúng ta tụng Ngũ
Nguyện trong mỗi thời cúng Đức Chí Tôn là chúng ta nguyện tu Tam lập :
- Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai : Muốn hoằng
khai Đại Đạo thì phải thuyết giảng giáo lý, viết sách truyền bá cho mọi người
biết, đó là Lập ngôn.
- Nhì nguyện phổ độ chúng sanh : đó là Công
quả.
- Tam nguyện xá tội đệ tử : Muốn được Đức Chí
Tôn xá tội thì phải lập hạnh gìn giữ giới luật tu hành nghiêm chỉnh để không
gây thêm tội lỗi mới, đó là Công trình.
- Tứ nguyện thiên hạ thái bình : Chúng ta thành
tâm cầu khẩn Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ban ơn cho thế giới được hòa bình, nhơn
sanh an lạc, đó là Công phu.
- Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh : Muốn được an
ninh thì chúng ta phải hành động thế nào cho hợp lòng người, thuận đạo Trời, đó
là Lập đức.Tham Vấn Đường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét